Núi Cấm là ngọn núi cao nhứt Tây Nam Bộ, lại có nhiều thắng cảnh, mang đầy huyền thoại. Núi cao 716 mét, chu vi gần 30 ngàn mét, nằm cận tỉnh lộ 948 thuộc địa phận xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Núi còn được dân gian gọi là núi Ông Cấm, tên chữ là Thiên Cẩm sơn (núi gấm trời), có người cho là Thiên Cấm sơn (núi trời cấm) hay Bạch Hổ sơn (núi cọp trắng).
Núi Cấm rất rộng lớn và có nhiều điểm
đến kỳ thú mà dù có dành ra vài ngày vẫn chưa khám phá hết. Tuy nhiên, tâm điểm
du lịch tại núi Cấm mà du khách không thể bỏ qua là khu “cao nguyên” núi Cấm.
Đây là một “lòng chảo” khá bằng phẳng, nằm trên độ cao khoảng 500 - 600 mét ở
trung tâm núi, được đầu tư quy mô. Nơi đây có ba điểm đến là tượng Phật Di Lặc,
chùa Phật Lớn, chùa Vạn Linh, cả ba cùng nằm xung quanh hồ Thủy Liêm.
Hồ Thủy Liêm là hồ nước nhân tạo rộng
lớn, vừa cung cấp nước cho người dân trên núi, vừa tạo cảnh quan phục vụ du lịch.
Hồ được khởi công xây dựng năm 2005 và hoàn thành năm 2008, diện tích gần 6 ha,
chu vi khoảng 1 km. Một cái hồ bất chợt hiện ra giữa khung cảnh núi rừng đại
ngàn, sóng gợn lăn tăn soi bóng mây trời, đàn cá đủ màu sắc tung tăng dưới làn
nước trong khe… tất cả dường như làm tôn lên vẻ đẹp huyền ảo của núi non.
Trước tiên, bạn sẽ thấy tượng Phật Di
Lặc cao 33,6 mét đang ngồi chễm chệ và mỉm cười. Bức tượng được khởi công năm
2003 và hoàn thành năm 2005, tác giả là nhà điêu khắc Thụy Lam. Pho tượng vững
chãi trên diện tích hơn 2 ha nầy là một công trình nghệ thuật tôn giáo độc đáo
và đồ sộ. Tượng khắc họa tinh tế gương mặt an nhiên và nụ cười từ bi của Phật,
nghệ thuật điêu khắc mang tính thẩm mỹ cao, sống động và hài hòa. Du khách đứng
ở vị trí nào trên các cao điểm của núi Cấm đều có thể thấy được pho tượng.
Nhìn từ tượng Phật Di Lặc ra hồ Thủy
Liêm, phía bên trái là chùa Phật Lớn với cảnh trí thơ mộng. Chùa được ông Bảy
Do - một nhân sĩ yêu nước lập vào đầu thế kỷ XX vừa là nơi tu hành, vừa là cơ sở
bí mật của Hội Kín chống Pháp. Thời gian ở núi Cấm, ông xây Nam Các tự đắp một
tượng Phật rất phúc hậu, cao 1,8 mét. Thời bấy giờ, tượng nầy cao lớn hơn tượng
ở các chùa khác trên núi, nên người dân gọi chùa nầy là chùa Phật Lớn. Tượng do
ông Bảy Do đắp là một hiện vật lịch sử có giá trị, nhưng không phải là tượng
trong chánh điện chùa Phật Lớn hiện nay, vì sau khi chùa được trùng tu năm 2009
thì tượng không còn được đặt ở chánh điện nữa.
Đối diện chùa Phật Lớn là chùa Vạn
Linh, nằm bên phải tượng Phật Di Lặc. Tổ khai sơn của chùa là hòa thượng Thiện
Quang (1895 - 1953). Đến năm 1927, ông từ giã thầy để lên núi Cấm tìm chốn ẩn
tu. Tại đây, ông lập một cái am tre lá thờ Phật và trị bệnh cho dân trong vùng,
nên người trên núi quen gọi là chùa Lá. Đến năm 1943, chùa được xây dựng và đặt
tên là Vạn Linh. Trong thời gian chiến tranh căng thẳng, chùa nhiều lần bị đánh
phá đổ nát. Sau khi chiến tranh kết thúc, chùa Vạn Linh hoang toàn vì bom đạn,
mãi đến năm 1995 mới có cơ hội lập lại chùa.
Gần chùa Vạn Linh có một con đường lên vồ Bồ Hong (cũng gọi là điện Bồ Hong) - đỉnh núi. Trên vồ Bồ Hông không biết từ khi nào đã hình thành một “phố chợ” thu nhỏ, phục vụ đầy đủ những nhu cầu của khách từ ăn uống, ngủ nghỉ, mua sắm… Trên đỉnh có điện thờ Ngọc Hoàng, điện thờ Địa Mẫu và điện thờ Cửu Huyền Thất Tổ lúc nào cũng khói hương nghi ngút.
Mặc dù đường khá dốc, nhưng nơi đây luôn là điểm mà du khách thường không bỏ qua khi đến núi Cấm. Những người hành hương cho rằng đi núi Cấm phải lên đến đỉnh để được những điều tốt lành, đi nửa chừng mà không lên tới đỉnh thì… uổng! Còn những người trẻ, khách du lịch phương xa thì chỉ nghĩ đơn giản là muốn tận hưởng cảm giác được chinh phục núi non hùng vĩ, được đứng trên “nóc nhà miền Tây”.
Du khách lên vồ Bồ Hông thường chọn buổi chiều và ngủ qua đêm ở đây để được ngắm hoàng hôn, bình minh và thưởng thức phố núi về đêm. Trên vồ Bồ Hong vào buổi tối, bạn sẽ thấy cả đất trời đều chìm trong màu đen huyền ảo, yên ắng, gió từ dưới thốc lên từng cơn lạnh buốc. Đồng bằng lúc nầy chỉ còn là những đốm sáng nhỏ li ti từ các phố chợ.
Sáng sớm khi mặt trời
chưa lên, phố núi chập chùng trong sương dầy đặc, hơi lạnh tỏa ra se se thú vị.
Mọi thứ xung quanh bạn đều chìm trong sương mờ ảo, chẳng còn thấy gì. Đôi khi
mây bay qua làm hé ra ánh nắng, rồi một đám mây khác lại bay đến che mất. Mặc
dù trời còn rất sớm, nhưng đã thấy khách hành hương có mặt ở đây không biết tự
lúc nào, tấp nập, huyên náo nhưng cũng rất bình dị, gần gũi!
Ngoài những di tích và thắng cảnh kể
trên, quanh núi Cấm còn rất nhiều điểm đến thú vị khác. Có nhiều phương tiện
lên núi như cáp treo, ô tô, xe máy… Tuy nhiên, nhiều khách hành hương, các bạn
trẻ, những người thích phiêu lưu thường chọn đi bộ trên đường rừng để thử thách
sức mình và tìm cảm giác thú vị khi chinh phục thiên nhiên.
Suối Thanh Long hiện nay là một trong
những điểm dừng chân không thể bỏ qua của những du khách đi lên núi bằng đường
rừng. Nước suối không biết từ đâu cứ đổ xuống theo triền núi, trong vắt và mát
lạnh. Trước đây suối chỉ là khe nước nhỏ, kể từ năm 1983, một trận lở núi xảy
ra, từ đó suối chảy ầm ào suốt ngày đêm với lượng nước rất lớn. Nước có nhiều
hay ít tùy theo mùa, nhưng hiếm khi khô cạn. Vào mùa mưa có nước nhiều nên suối
chảy rất mạnh, từ chân núi du khách cũng có thể nghe tiếng ầm ầm vang động cả một
vùng.
Từ suối Thanh Long, tiếp tục đi một
đoạn nữa theo đường rừng, bạn sẽ gặp ngã ba, rẽ phải lên “cao nguyên” núi Cấm,
rẽ trái sẽ sang điện Rau Tần. Điện Rau Tần là nơi ngày xưa có nhiều cây rau tần
mọc, nên được đặt tên như thế. Ở đây có thánh tịnh Cao Đài tự là cơ sở tôn giáo
thuộc Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên.
Điện Rau Tần đươc xem là trung tâm võ
thuật lừng danh, gắn với võ phái Thất Sơn Thần Quyền. Đến nay, nguồn gốc môn võ
nầy vẫn chưa thể xác định. Tương truyền nó do ông Cử Đa hướng dẫn cho nghĩa
binh Gia Nghị trong khởi nghĩa Bảy Thưa. Có người lại cho rằng nó bắt nguồn từ
võ Bình Định, võ Huế, rồi được người Nam Kỳ cải biên. Nhưng cũng có người cho rằng
võ phái nầy là của ông Bảy Do sáng lập, hay những nhân vật lịch sử ở Thất Sơn,
thậm chí một vài người có lai lịch mơ hồ.
Song, không thể phủ nhận từ cuối thế
kỷ XIX, sau khi Nam Kỳ rơi vào tay Pháp, điện Rau Tần trở thành nơi tập luyện
và thi đấu võ thuật của vùng Thất Sơn, thu hút đông đảo võ sinh đến bái sư học
đạo. Trước năm 1975, các võ phái Thất Sơn từng một thời cực thịnh với nhiều võ
sư có tên tuổi. Họ tập hợp thành một hệ thống với danh xưng chung là Thất Sơn
Võ Đạo, chiến thắng nhiều trận đấu tại khu vực châu Á. Tuy nhiên, thời hoàng
kim ấy đã qua, hiện nay Thất Sơn chỉ còn ít người biết võ, các võ phái gần như
đã thất truyền.
Gần khu vực chùa Phật Lớn, bạn có thể
đến điện Mười Ba, hang Ông Thẻ, hang Đơn Hùng Tín, hang Bác Vật Lang… Hang Đơn
Hùng Tín tương truyền là nơi xưa kia Lê Văn Tín - tướng cướp khét tiếng đầu thế
kỷ XX lấy biệt hiệu là Đơn Hùng Tín đã ẩn náo và cất giấu vàng bạc. Điện Mười
Ba là hang đá có mười ba tầng thông nhau, nằm ở hướng Đông Bắc, độ cao khoảng
400 mét, dài 200 mét, rộng chỉ 1 mét. Trong hang càng vào sâu càng hẹp và lạnh,
nhưng ra khỏi cửa hang là bầu trời trong xanh, tươi đẹp. Người ta thường cho rằng
đi núi Cấm vào điện Mười Ba xem như là một lần được “tái sanh”.
Hang Bác Vật Lang đến nay vẫn còn là
một bí ẩn. Bác vật Lang tức Lưu Văn Lang là kỹ sư (bác vật) Việt Nam đầu tiên.
Ông là nhà trí thức miền Nam tiêu biểu, từng thiết kế nhiều công trình, có vai
trò lớn trong ngành khoa học kỹ thuật nước ta thời bấy giờ. Tương truyền khi
người Pháp thám sát núi Cấm, họ đã đưa bác vật Lang xuống hang nầy. Sau gần một
ngày, ông từ dưới hang trở lên và từ đó về sau không nói một lời nào. Dưới hang
có gì? Đến nay đó vẫn là câu hỏi không lời đáp. Dân gian có bài vè: “Đàn kêu
tích tịch tình tang / Đố ai biết được trong hang là gì? / Đàn kêu tích tịch tì
tì / Đố ai biết được cái gì trong hang?” Hiện nay cũng có nhiều người thám hiểm
hang, nhưng hang rất tối và nhiều ngõ ngách, không ai có thể đi giáp hết được
và bí mật về hang Bác Vật Lang vẫn mãi là ẩn số!
Trên núi Cấm có nhiều vồ (chỏm cao)
như vồ Chư Thần, vồ Bạch Tượng, vồ Cây Quế, vồ Mồ Côi, vồ Đá Dựng, vồ Pháo
Binh… Trong đó, có năm vồ cao và đẹp tiêu biểu, người dân thường gọi “năm non”,
bao gồm vồ Bồ Hong, vồ Đầu, vồ Bà, vồ Thiên Tuế, vồ Ong Bướm. Trong đó, vồ Bồ
Hong là đỉnh núi, cao 716 mét, khi xưa có nhiều bồ hong tụ tập. Vồ Đầu cao 584
mét, tương truyền là nơi đặt trạm canh gác đầu tiên của quân lính chúa Nguyễn
Ánh khi lên núi ẩn lánh. Vồ Bà cao 579 mét, có điện thờ Bà Chúa Xứ. Vồ Thiên Tuế
cao 541 mét, có nhiều cây thiên tuế, tương truyền là nơi chúa Nguyễn Ánh trú ngụ,
hiện nay còn miễu thờ. Vồ Ong Bướm cao 480 mét, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống
Pháp của người Campuchia là Acha Soa (người Việt gọi Ong Bướm) từng đóng quân
vào thập niên 1860.
Khí hậu núi Cấm rất mát mẻ, nhiệt độ
trung bình khoảng 24 độ C, lên càng cao càng lạnh, nhứt là về đêm. Có khi sương trắng
phủ đầy núi, mây bay là đà trước mặt người, tất cả mọi vật trước mắt bạn đều
chìm trong màn sương trắng xóa. Núi Cấm không chỉ đơn thuần là chốn hành hương,
ngoạn cảnh, mà còn là nơi nghỉ mát tuyệt vời. Lên với núi, bạn có thể có những
phút giây thoải mái, quên đi bao mệt mỏi, bộn bề thường ngày. Để rồi khi xuống
núi, tâm hồn bạn sẽ được cân bằng để sẵn sàng tiếp tục cho những ngày làm việc
sắp tới.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét