Thành phố Châu Đốc (tỉnh An Giang) nằm cạnh biên giới Việt Nam - Cambodia, là vùng đất có bề dầy lịch sử, đậm dấu ấn văn hóa phương Nam thời mở cõi. Châu Đốc vừa có núi, vừa có sông, lại có nhiều di tích văn hóa lịch sử, danh lam thắng cảnh… những điều đó góp phần thúc đẩy sự phát triển du lịch của thành phố. Hiện nay, Châu Đốc là một đô thị du lịch - lễ hội đầy tiềm năng với quang cảnh thơ mộng bên ngã ba sông, là cửa ngõ giao thương quan trọng của tỉnh và khu vực, đặc biệt với nước bạn Cambodia.
Vào thành phố, bạn sẽ gặp công viên rộng
lớn, thoáng mát, nằm ngay ngã ba sông, nơi giao nhau giữa sông Hậu và sông Châu
Đốc. Năm 2003, tượng đài Cá basa cao 14 mét của nhà điêu khắc Trần Thanh Phong
được dựng lên ở đây. Đây là loài đã gắn bó với người An Giang gần trăm năm, dẫu
có lúc thăng trầm. Tượng đài không chỉ “nhớ ơn” loài cá nầy, mà còn tôn vinh
người làm nghề nuôi cá.
Một điểm đặc biệt khi nói đến Châu Đốc
là… xe lôi. Như mọi người đã biết, xe lôi là dạng xe “tự chế” dùng để chở hành
khách nhưng cũng có khi chở hàng hóa, thường thấy ở miền Tây ngày trước. Hiện
nay, nhiều loại phương tiện hiện đại đã thay thế xe lôi ở nhiều nơi, ngoại trừ
Châu Đốc. Dường như từ lâu xe lôi đã trở thành một nét thân thương, gần gũi của
thành phố. Chính vì thế mà báo chí gọi xe lôi là “xe vua” Châu Đốc hay “nét văn
hóa” Châu Đốc. Một số người còn nói vui rằng xe lôi là “xe dân biểu” tức là dân
biểu (kêu / bảo) đi đâu thì đi đó!
Ở trung tâm thành phố Châu Đốc, du
khách sẽ bắt gặp một kiến trúc cổ uy nghiêm giữa lòng đô thị, đó là đình thần
Châu Phú. Đình Châu Phú là công trình nghệ thuật sắc sảo, một trong những
ngôi đình lớn và đẹp ở miền Tây. Đình Châu Phú có kiến trúc mang hình chữ “tam”
bề thế, cổ kính. Ngôi đình mang đậm dấu ấn nghệ thuật truyền thống dân tộc, đồng
thời thể hiện được những tinh hoa trong phong cách kiến trúc cung đình thời
Nguyễn. Tổng hòa các chi tiết nghệ thuật trong đình tạo cho du khách cảm giác
như đang lạc vào trong một xứ sở huyền thoại thời cổ xưa. Đặc biệt, đình còn
lưu giữ nhiều sắc phong của vua Minh Mạng và Tự Đức.
Đến Châu Đốc mà không đi thăm làng bè
quả là một điều thiếu sót. Làng bè là cụm nhà bè nổi trên sông, dùng để nuôi cá
basa và các loại cá da trơn khác. Hàng ngàn bè cá tập trung quanh khu vực ngã ba
sông Châu Đốc kéo dài hàng cây số, như một bức tranh độc đáo, đậm chất văn hóa
sông nước và gây hứng thú cho du khách đến tham quan. Bè thực chất là nhà sàn với
đầy đủ các tiện nghi, phía dưới có khoảng đáy sâu được rào bằng kim loại hoặc gỗ
để nuôi hàng ngàn con cá. Bè cá được chủ nuôi chọn lựa đặt ở vị trí dòng nước
phù hợp, thuận lợi cho sinh hoạt gia đình. Xuồng ghe là phương tiện di chuyển
chủ yếu của các gia đình ở làng bè. Du khách muốn tham quan làng bè cũng phải
đi bằng xuồng ghe thuê người trong bờ đưa ra sông hoặc đi bằng tàu chở khách của
các công ty lịch.
Từ nội ô thành phố Châu Đốc, du khách đi theo đường Tân Lộ Kiều Lương để đến với cụm di tích - danh thắng núi Sam là tâm điểm du lịch của Châu Đốc. Đây là một trong những con đường đầu tiên được đắp ở An Giang, do Thoại Ngọc Hầu cho thực hiện trong hai năm 1826 - 1827 và ông đặt tên là Tân Lộ Kiều Lương. Đặc biệt, dọc theo đường có trưng bày những tác phẩm điêu khắc độc đáo làm từ bàn tay của hàng trăm nhà điêu khắc đến từ khắp các nước. Đó là các tác phẩm được ra đời từ hai trại điêu khắc quốc tế chủ đề “Dấu ấn An Giang” vào năm 2003 và 2005. Những tảng đá vô tri, vô hồn giờ đây dường như bay bổng và thoát tục, chuyển tải những thông điệp đầy ý nghĩa nhân văn, thể hiện sinh động và phong phú các nền văn hóa.
Chùa Tây An (Ảnh: Vĩnh Thông) |
Đến với núi Sam, điểm đầu tiên bạn bắt
gặp là ngôi chùa Tây An đồ sộ, cổ kính, lạ mắt nằm ngay tại ngã ba. Đây là ngôi
chùa có kiến trúc kết hợp phong cách cổ truyền của chùa Việt và một số nét nghệ
thuật Ấn Hồi… qua đó phần nào thể hiện tính chất đa văn hóa của vùng biên giới
có sự cộng cư nhiều tộc người. Nhìn chung, chùa Tây An là một công trình kiến
trúc mang tính thẩm mỹ cao. Nội và ngoại thất chùa được tạo tác công phu, tỉ mỉ
đến từng chi tiết nhỏ. Tất cả làm nên sự hài hòa mà cũng rất đặc biệt, sáng tạo,
không giống bất cứ ngôi chùa nào.
Bước vào chánh điện là bạn đã bước
vào không gian cổ xưa trầm mặc. Quanh chánh điện, những bức tượng đầy màu sắc
được điêu khắc sinh động, nằm xen giữa những hoành phi và liễn đối bóng loáng
được thếp vàng rực rỡ, khói nhang man mác bay lên… tất cả mang đến không khí u
tịch, hoài cổ. Chùa Tây An cũng là một trong những ngôi chùa có nhiều tượng nhứt
An Giang, với khoảng 200 pho tượng. Đa số các tượng được làm bằng gỗ, chạm trổ
sắc nét, đậm triết lý Phật giáo.
Nằm chếch góc với chùa Tây An là một
ngôi miếu khang trang, có tên chữ là Chúa Xứ Thánh miếu, thường gọi là miếu Bà
Chúa Xứ. Miếu có dạng chữ “quốc” hình khối tháp, nóc là một cổ lầu chồng lên ba
cấp mái hiên, mô phỏng hình ảnh hoa sen nở, lợp ngói đại tiểu màu xanh ngọc.
Trong chánh điện, tượng Bà to lớn, mặc áo thêu rồng phượng sặc sỡ, đầu đội mão,
được đặt trên nền cao ở vị trí trung tâm.
Miếu Bà và tượng Bà gắn liền với nhiều
truyền thuyết huyền bí, hấp dẫn, được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Dân gian kể
rằng, pho tượng ban đầu trên núi Sam, dân làng phát hiện và khiêng xuống núi để
thờ cúng. Hằng năm, lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam diễn ra từ ngày 23 đến ngày
27 tháng 4 âm lịch. Đây là một lễ hội có tầm cỡ lớn hàng đầu ở Nam Bộ, thu hút
hàng triệu khách hành hương từ các nơi về dự.
Lăng Thoại Ngọc Hầu nằm trên nền cao
tựa lưng vào núi Sam, chếch góc với miếu Bà Chúa Xứ. Đây là nơi an nghỉ của Trấn
thủ Vĩnh Thanh Thoại Ngọc Hầu và nhị vị phu nhân. Lăng là công trình kiến trúc
đặc sắc, cổ kính, với một tổng thể hài hòa từ cổng vào đến bình phong, khu mộ,
đền thờ, cây cảnh… mang phong cách lăng tẩm triều Nguyễn. Toàn bộ khu lăng được
xây bằng hồ ô dước, bao bọc bởi bức tường dầy và cao, bền chắc.
Trong khu chính có ba ngôi mộ xây bằng
hồ ô dước đơn sơ, khiêm tốn. Ở giữa là ngôi mộ của Thoại Ngọc Hầu, bên phải của
chánh thất Châu Thị Tế, bên trái nhỏ hơn của thứ thất Trương Thị Miệt. Mỗi ngôi
mộ có kiến trúc mang dáng dấp đền miếu, trước mộ có bức bình phong dầy dặn che
chắn. Phía sau khu mộ là đền thờ Thoại Ngọc Hầu có diện tích nhỏ gọn, kiến trúc
đơn giản, đậm nét truyền thống. Trong đền bày trí trang nhã, tôn nghiêm, với điểm
nhấn là tượng bán thân Thoại Ngọc Hầu.
Cách miếu Bà Chúa Xứ khoảng 1,5 km, chùa Hang - Phước Điền tự là nơi được nhiều du khách biết đến và ghé thăm. Chùa là một kiến trúc tinh xảo nằm trên núi Sam với tổng thể màu nâu đỏ thâm nghiêm, trầm mặc, như chốn bồng lai bất chợt hiện ra trước mắt du khách. Chùa mang phong cách Thiền tông, gồm nhiều tòa nhà kiến trúc gần giống nhau nhưng chức năng khác nhau. Muốn lên đến chùa, bạn phải vượt qua hàng trăm bậc đá từ chân núi lên. Các bạn trẻ thường thích lên chùa Hang ngoạn cảnh, bởi cảnh chùa trang nhã, dựa vào lợi thế cảnh trí núi non, khí hậu thật mát mẻ.
Núi Sam cao 228 mét, chu vi 5200 mét,
nằm chễm chệ giữa một vùng đồng ruộng bát ngát, án ngữ cửa ngõ vào Thất Sơn.
Núi có ba phần chính là ngọn Đầu Bờ phía Đông, ngọn cao nhứt là đỉnh và ngọn Đá
Chẹt phía Tây. Đỉnh của núi Sam có tên gọi là Pháo Đài, vì năm 1896, Chủ tỉnh
Châu Đốc Doceuil đã cho xây dựng một ngôi nhà nghỉ mát trên đỉnh núi, tầng trên
cùng có hình trôn ốc nên người dân gọi là Pháo Đài. Trong thời kỳ chiến tranh,
Pháo Đài cũng là căn cứ quân sự chiến lược, tuy nhiên đã bị phá hủy. Ngày nay,
Pháo Đài chỉ còn là phế tích với những bức tường loang lổ.
Có thể lên núi bằng hai con đường. Đường
tráng nhựa phía sau núi do Pháp thực hiện, ô tô và xe máy có thể đi dễ dàng. Từ
Châu Đốc đến ngã ba Đầu Bờ rẽ trái một đoạn nữa là đến. Trên đường, du khách có
thể viếng chùa Long Sơn đồ sộ bên triền núi, trong quang cảnh xinh đẹp, thanh
thoát. Đường thứ hai lên núi Sam chỉ dành cho người đi bộ là đường nấc thang
sau lăng Thoại Ngọc Hầu. Đường ngắn (đi khoảng một giờ) nhưng dốc, có nhiều
chùa miếu và quán ăn uống để du khách dừng chân. Từ đoạn đường nầy, bạn có thể
vòng qua sườn núi phía Bắc để đến ngoạn cảnh đồi Bạch Vân - một điểm tuyệt vời
để nghỉ mát, ngắm cảnh, vui chơi.
Lên đến đỉnh núi, du khách sẽ thấy bệ
đá trầm tích thạch màu xanh đen, hình vuông, ở giữa có lỗ vuông. Đây là bệ đá đặt
tượng Bà Chúa Xứ trước khi được đem về miếu. Nhìn từ trên núi Sam xuống, Tân Lộ
Kiều Lương giống như con rắn lượn giữa làng mạc, xóm thôn. Dưới chân núi là nhà
cửa chi chít, xa hơn là ruộng đồng, kinh rạch xanh lơ, và đô thị Châu Đốc nằm
tít xa quyện với sương mờ.
Châu Đốc nổi danh là xứ hành hương, với
hàng trăm chùa, đình, miếu lớn nhỏ. Các bạn có thể đến thăm các chùa cổ ở ngoại
ô thành phố, các đình miễu ở trung tâm thành phố, hay khu di tích thắng cảnh
núi Sam. Tuy nhiên, những điểm đến mà người viết nêu lên chỉ mang tính gợi ý.
Còn nhiều điểm đến do giới hạn khuôn khổ tập sách nên chúng tôi đành gác lại,
các bạn có thể tự khám phá như chùa Phú Thạnh, chùa Châu Long, chùa Huỳnh Đạo,
tịnh xá Ngọc Châu, đình Vĩnh Nguơn, đình Vĩnh Tế, miếu Vệ Thủy, miếu Tam Sơn,
miếu Hàn Lâm…
Ngoài các điểm tham quan nổi tiếng,
Châu Đốc được xem là nơi có văn hóa ẩm thực độc đáo ở miền Tây, có sự kết hợp của
các tộc người Việt, Khmer, Hoa, Chăm. Đến Châu Đốc, có những đặc sản mà nếu du
khách bỏ qua thì sẽ rất tiếc. Đó là cá basa, bò vò viên, bún nước kèn, khô, mắm
và các món liên quan đến mắm…
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét